ỨNG DỤNG
Làm đặc nước sốt và nước thịt và được sử dụng để nướng.
THIẾT BỊ THỬ NGHIỆM
Dụng cụ: Máy đo độ trơn chảy của bột
Khay: 230cc, đường kính 6 inch (thể tích tiêu chuẩn)
Loại nắp: Nắp dạng Vane, 33cc, đường kính 6 inch
Nắp tường, hoàn thiện 2B, đường kính 6 inch
Loại kiểm tra: Flow Function Test, Wall Friction Test
Nhiệt độ: Nhiệt đô phòng (70-72°F)
Độ ẩm: 47.5%
PHƯƠNG PHÁP
Máy đo độ chảy của bột Brookfield được trang bị phần mềm Powder Flow Pro để điều khiển thiết bị tự động và thu thập dữ liệu. Cho tinh bột ngô vào khay và dàn đều. Sau khi ghi lại trọng lượng mẫu và nhập nó vào phần mềm, tiến hành thực hiện Flow Function test và Wall Friction test. Thời gian cần thiết cho mỗi bài kiểm tra lần lượt là 25 phút và 13 phút.
CÁC THÔNG SỐ ĐO
Khả năng chảy: Rất dính đến dễ chảy
Ma sát thành: 35° đến 29°
Tỷ trọng khối: 625 kg/m3 (fill density) đến 800 kg/m3
PHÂN TÍCH
Hình dạng phễu: Hình nón
Kích thước vòm tới hạn: 63.1 mm (2.5 in.)
KẾT QUẢ
Hình 1 cho thấy khả năng chảy của bột ngô ở các mức độ ứng suất cố kết khác nhau. Những kết quả này cho thấy bột ngô, ở mức ứng suất cố kết cao hơn 6 kPa, là vật liệu dễ chảy hơn. Mặt khác, ở ứng suất cố kết rất thấp dưới 1,4 kPa, bột rơi vào vùng rất dính và khó chảy hơn.
Chú ý: Dữ liệu Flow Function được biểu thị bằng đường màu đỏ. Khi diễn giải đồ thị Flow Function, dữ liệu được đọc từ bên phải sang bên trái. Điểm dữ liệu ngoài dùng bên phải chỉ dòng chảy của bột khi phễu đầy, điểm ngoài cùng bên trái biểu diễn dòng chảy của bột khi phễu rỗng. Các đường màu tím là Chỉ số lưu lượng chuẩn giúp phân biệt các loại hành vi khác nhau của dòng chảy thông qua các mức độ cố kết, từ “chảy tự do” (phân đoạn dưới cùng) đến “không chảy” (hầu hết phân đoạn trên cùng).
Hình 1: Đồ thị Flow Function của bột ngô
Hình 2 biểu diễn góc ma sát thành ở các mức ứng suất pháp tuyến khác nhau. Góc của ma sát thành đại diện cho ma sát của bột trượt trên thành của phễu hoặc máng khi bắt đầu chảy. Trong thử nghiệm này, sử dụng một nắp thép không gỉ, minh họa ma sát sẽ như thế nào nếu bột ngô ở trong một phễu bằng thép không gỉ. Ở ứng suất pháp tuyến thấp khoảng 0,5 kPa, góc ma sát hiệu quả của thành là khoảng 35º và giảm xuống khoảng 29º ở mức ứng suất pháp tuyến cao hơn (4,75 kPa).
Chú ý: Wall Friction test và Flow Function test là các thử nghiệm độc lập. Flow Function test đo lường dòng chảy của bột qua lỗ, trong khi Wall Friction test đo dòng chảy của bột với các cấu trúc vật liệu cụ thể.
Hình 2: Đồ thị ma sát thành của bột ngô
Hình 3 cho thấy tỷ trọng khối của vật liệu ở các mức ứng suất cố kết khác nhau. Biểu đồ cho biết rằng bột ngô có fill density khoảng 625 kg/m3 và tăng lên khoảng 625 kg/m3 ở ứng suất cố kết khoảng 11 kPa. Nói cung, một loại bột dễ chảy hơn sẽ cho thấy những thay đổi rất nhỏ (dưới 30%) về tỷ trọng khối, trong khi một loại bột kết dính hoặc chảy kém nói chung sẽ cho thấy sự gia tăng tỷ trọng khối lớn (lớn hơn 30%). Trong trường hợp này, sự thay đổi về mật độ khối là 28%. Vật liệu này trên đỉnh là một vật liệu kết dính hơn, khó chảy hơn. Điều này được củng cố bởi Flow Function test cho thấy ban đầu vật liệu dễ dàng chảy ở độ cố kết cao hơn.
Hình 3: Biểu đồ Tỷ trọng khối của bột ngô
KẾT LUẬN
Bột ngô là một loại bột rất kết dính ở mức ứng suất cố kết thấp (dưới 1 kPa), kết dính ở mức ứng suất cố kết từ 1 kPa đến 6 kPa, và dễ chảy ở mức ứng suất cố kết cao. Điều này có nghĩa là bột ngô có thể có vấn đề về độ chảy khi phễu rỗng. Kích thước vòm tới hạn 2.5 inch (63.1 mm) cung cấp một ước tính thận trọng để ngăn hiện tượng tạo vòm xảy ra, với điều kiện kích thước đầu ra tối thiểu của phễu vượt quá giá trị này.